Bo mạch đồ hoạ (tiếng Anh: Video card, Graphics Accelerator Card, hoặc Video Display Adapters...), card đồ hoạ, cạc màn hình ...
là tên gọi của thiết bị chịu trách nhiệm xử lý các thông tin về hình
ảnh trong máy tính để xuất tín hiệu ra thiết bị hiển thị. Bo mạch đồ
hoạ thường được kết nối với thiết bị hiển thị hình ảnh (màn hình, máy
chiếu...) cho mục đích giao tiếp giữa người và máy tính.
CÁI GÌ GỌI LÀ BO MẠCH ĐỒ HOẠMọi máy tính cá nhân, máy tính xách tay đều phải có bo mạch đồ hoạ, chỉ có điều là nó ở dạng nào mà thôi. Bạn thấy điều này có vô lý hay không? Chắc là sẽ có nếu bạn đã từng mở một vỏ máy tính ra để xem ở bên trong nó có gì, nhưng đôi khi lại không thấy bo mạch đồ hoạ đâu cả. Xin hãy bình tĩnh, hãy đọc phần tiếp theo để có thể quy ước rằng sẽ có bo mạch đồ hoạ để cho chúng còn có chức năng đúng như định nghĩa ở trên. Có thể có nhiều cách phân loại bo mạch đồ hoạ khác nhau: theo dạng thức vật lý, theo loại GPU, theo bus giao tiếp với bo mạch chủ (PCI, AGP, PCI Express...) và thậm chí còn theo hãng sản xuất thiết bị. Để thuận tiện cho các cách gọi ở phần sau trong bài viết này, tạm phân các loại bo mạch đồ hoạ theo dạng thức vật lý của chúng. Theo cách này bo mạch đồ hoạ có các loại:
CÁC THẾ HỆ BO MẠCH ĐỒ HOẠ Tôi không có tham vọng rằng trình bày được quá trình phát triển của các bo mạch đồ hoạ trong từng thời kỳ, từng năm, nhưng tôi muốn trả lời câu hỏi của chính tôi rằng sự phát triển của công nghệ phần cứng đồ hoạ có thực sự là cần thiết đến như vậy hay không? chúng ta được lợi gì khi có sự phát triển đồ hoạ mạnh mẽ như vậy.
Ban đầu tiên của những chiếc máy tính chỉ xuất ra các hình ảnh hai chiều (2D) đơn thuần, có nghĩa rằng một bo mạch đồ hoạ thời trước đây chỉ cần thực hiện những khối lượng công việc đơn giản, ngay như bộ xử lý đồ hoạ trong giai đoạn này cũng không tần tản nhiệt, lượng bộ nhớ cũng rất nhỏ so với hiện nay. Trong giai đoạn này thì IBM đã đưa ra các chuẩn về bo mạch đồ hoạ như sau:
Tuy các chuẩn này cho đến hiện nay không còn được sử dụng nữa, IBM cũng không còn quan tâm đưa ra các chuẩn của bo mạch đồ hoạ nữa khi mà hãng này đã bán bộ phận máy tính cá nhân (PC) cho Lenovo của Trung Quốc vào năm 2005. Chỉ duy nhất còn lại có lẽ là chuẩn VGA được coi như một sự tương thích đối với đa số các thiết bị hiển thị. Bạn dễ nhận thấy rằng không phải người sử dụng sẽ chỉ dùng máy tính cho các trò chơi cũ kỹ, soạn văn bản đơn thuần trên các phần mềm cũ, mà đang tiến tới những gì cần hiển thị tốt hơn nữa, có độ phân giải cao do đó thì bo mạch đồ hoạ cũng phải phát triển mạnh mẽ để phục vụ nhu cầu sử dụng này. Từ những năm 1990 trở đi thì các ứng dụng bắt đầu chú trọng đến xử lý đồ hoạ 3D và do đó sự phát triển của bo mạch đồ hoạ lại chạy đua theo nhu cầu của một phần những người sử dụng đam mê game hay những người làm công việc liên quan đến xử lý đồ hoạ 3D (các nhà thiết kế phát triển game, các kiến trúc sư...) Sự phát triển các bo mạch tăng tốc đồ hoạ 3D thì sớm hơn, chúng có thể tóm tắt theo bảng sau:
Vậy với những sự phát triển của các loại bo mạch tăng tốc đồ hoạ 3D thì chỉ phục vụ một phần nhỏ số người sử dụng thì người sử dụng bình thường thì sao? Có chút lợi gì không? Tôi nghĩ là có, bởi vì giá thành các công nghệ mới ra đời thì ban đầu sẽ rất cao, nhưng chỉ sau một thời gian thì những dòng sản phẩm cao cấp nhất sẽ lại trở thành lạc hậu hơn so với các công nghệ đồ hoạ mới hơn nữa. Chúng từ nhóm dành cho người sử dụng cao cấp được hạ dần xuống tầm trung và cuối cùng là trở thành thông dụng đối với người dùng phổ thông chỉ sau một vài năm. Đó là những gì mà chúng ta đã được lợi khi công nghệ phát triển nói chung và công nghệ đồ hoạ phát triển nói riêng. Cùng với một hình minh hoạ về bo mạch đồ hoạ sử dụng bus ISA đã trình bày ở trên thì tôi cũng muốn giới thiệu một số hình ảnh (sưu tầm được) về các bo mạch đồ hoạ đã phát triển thế nào theo thời gian. Lưu ý rằng thời gian của sự phát triển này đã không quá dài, chúng chỉ trong vòng 10 năm. Thật khó tưởng tượng trong 10 năm tiếp theo thì sẽ ra sao.
Ở trên là một đại diện về bo mạch đồ hoạ sử dụng bus PCI, còn dưới đây là thế hệ kế tiếp: Sử dụng bus AGP.
Và đây rồi, những bo mạch đồ hoạ đương đại. Chúng không phải là hiện đại nhất những chúng đã từng là như vậy, cho đến ngày hôm nay thì giá bán của chúng đã rẻ đi khá nhiều để người dùng phổ thông cũng có thể sở hữu được.
CÁC HÀM API TRONG ĐỒ HOẠSự xuất hiện của nhiều bộ xử lý đồ hoạ với các công nghệ khác nhau không thống nhất theo chuẩn nhất định khiến cho các nhà phát triển phần mềm và trò chơi trên máy tính gặp khó khăn về vấn đề tương thích đối với các bo mạch đồ hoạ khác nhau. Để thuận tiện cho các nhà viết phần mềm đồ hoạ và trò chơi trên máy tính cần thống nhất các hàm API (Application Programming Interface: Giao diện lập trình ứng dụng) sử dụng chung mà các bo mạch đồ hoạ cần phải tương thích với chúng các hãng đã đưa ra hai chuẩn chung là DirectX và OpenGL. DirectX: được hãng Microsoft phát triển vào những năm 1996 nhằm hướng các nhà lập trình sử dụng chúng để lập trình các game cho hệ điều hành Windows 95 (hệ điều hành mang tích cách mạng trong thời bấy giờ, bắt đầu cách ly việc các phần mềm can thiệp trực tiếp vào phần cứng) thay cho thói quen lập trình trên nền DOS mà họ dễ dàng can thiệp vào phần cứng. Sự phát triển các phiên bản DirectX từ đó đến phiên bản DirectX 9c mang tính kế thừa, nhưng đến phiên bản gần đây nhất - DirectX 10 (chỉ sử dụng trong Windows Vista và các hệ điều hành khác nếu có của Microsoft sau này) có một sự thay đổi lớn được xem như viết trên một nền tảng mới hoàn toàn. OpenGL được Silicon Graphics phát triển những năm 1990, tuy không được thông dụng như DirectX trong ứng dụng game nhưng hiện nay hầu hết các bo mạch đồ hoạ đều hỗ trợ chúng. THÀNH PHẦN CƠ BẢNBộ xử lý đồ hoạ (GPU) hoặc chức năng đồ hoạ tích hợp
Bộ xử lý đồ hoạ ("Graphics Processing Unit", viết tắt là GPU) là thành phần rất quan trọng quyết định đến sức mạch đồ hoạ, nó có ý nghĩa như CPU trong máy tính. GPU thường được hàn/dập chắc chắn vào bo mạch đồ hoạ rời. Đối với các bo mạch đồ hoạ tích hợp trên bo mạch chủ chúng có thể ở dạng GPU gắn liền trên bo mạch chủ hoặc được tích hợp chung vào chipset. Hiện nay ở Việt Nam thì các bo mạch đồ hoạ rời thường sử dụng GPU của hai hãng sản xuất (các hãng khác ít thấy xuất hiện trên thị trường Việt Nam)
Đối với dạng tính năng đồ hoạ được tích hợp vào chipset hoặc gắn liền trên bo mạch chủ:
Bộ nhớ đồ hoạ Để xử lý các tác vụ đồ hoạ và lưu trữ kết quả tính toán tạm thời, bo mạch đồ hoạ sử dụng các dạng bộ nhớ sau:
Dung lượng của bộ nhớ đồ hoạ một phần quyết định đến: độ phân giải tối đa, độ sâu màu và tần số làm tươi mà bo mạch đồ hoạ có thể xuất ra màn hình máy tính. Dung lượng bộ nhớ đồ hoạ có thể có số lượng thấp (1 đến 32 MB) trong các bo mạch đồ hoạ trước đây, 64 đến 128 MB trong thời gian hai đến ba năm trước đây và đến nay đã thông dụng ở 256 MB với mức độ cao hơn cho các bo mạch đồ hoạ cao cấp (512 đến 1GB và thậm chí còn nhiều hơn nữa trong tương lai). Tuy nhiên, dung lượng không phải là một yếu tố quan trọng, cũng như dung lượng RAM và sự tổng thể chung của một hệ thống máy tính thì các tham số khác của bộ nhớ rất ảnh hưởng đến hiệu năng làm việc của bo mạch đồ hoạ. Để nâng cao hiệu năng thì các nhà thiết kế đã dần sử dụng các bộ nhớ có tốc độ cao hơn, do đó đến nay đã qua nhiều chuẩn bộ nhớ đồ hoạ đã từng được sử dụng: FPM DRAM, VRAM, WRAM, EDO DRAM, SDRAM, MDRAM, SGRAM, DDR SDRAM, DDR-II SDRAM, và gần đây là GDDR-3 SDRAM, GDDR-4 SDRAM và mới nhất là GDDR-5 SDRAM[2]. Bus kết nối Khi đã gắn vào bo mạch chủ để trở thành một hệ thống thì tất cả các thiết bị đều phải sử dụng một bus nào đó để kết nối chúng với hệ thống. Bo mạch đồ hoạ cũng vậy, chúng thường sử dụng các đường truyền dữ liệu theo các chuẩn nhất định (bus) để truyền dữ liệu giữa bo mạch đồ hoạ với hệ thống máy tính, các bus có thể là PCI Express X16 (mới nhất), AGP (gần đây), PCI (trước khi ra đời AGP), hoặc các bus cổ hơn nữa trong thời gian trước đây (ISA 8 bit, ISA 16 bit, VESA 32 bit). Đặc điểm của các bo mạch đồ hoạ sử dụng các bus được giới thiệu sơ lược như sau:
Để biết thêm về tốc độ của một số bus kết nối, xin xem thêm entry này. Trình điều khiển (driver) Bo mạch đồ hoạ đều cần sử dụng một trình điều khiển riêng đối với các hệ điều hành khác nhau, nếu không có các trình điều khiển thì dù có một bo mạch đồ hoạ hiện đại nhất hệ thống chỉ xuất ra hình ảnh có có độ phân giải thấp, độ sâu màu thấp và với tốc độ làm tươi hạn chế hoặc không thể khai thác được hết khả năng của của các bo mạch đồ hoạ. Trình điều khiển được cần được cài đặt vào hệ điều hành sau khi kết nối bo mạch đồ hoạ với hệ thống (trong một số trường hợp, trình điều khiển hệ thống đã được tích hợp sẵn với hệ điều hành thì người sử dụng có thể không cần đến việc cài đặt trình điều khiển). Do sự quan trọng của trình điều khiển mà nó là một thành phần cơ bản, không thể thiếu trong bo mạch đồ hoạ. Đôi khi trình điều khiển chưa được hoàn thiện hay tồn tại một số lỗi dẫn đến hiệu năng của bo mạch đồ hoạ bị giảm ít hay nhiều tuỳ mức độ, hoặc xuất ra hình ảnh không đúng, gây lỗi hiển thị.
RAMDAC
DAC (Digital-to-Analog Converter): Có chức năng chuyển đổi các tín hiệu số sang tín hiệu tương tự để hiển thị trên màn hình máy tính. Tốc độ của DAC có thể cao hơn tốc độ làm việc của bộ xử lý đồ hoạ trong các bo mạch trước đây (đến năm 2007 thường vào khoảng 300-500 Mhz). DAC có thể là một bộ phận tách rời hoặc tích hợp sẵn vào các bộ xử lý đồ hoạ mà không nhất thiết phải là một bộ phận độc lập nữa.
Video BIOS
Cũng giống như tính năng của BIOS ở bo mạch chủ, video bios chứa toàn bộ thông tin thiết lập về phần cứng của bo mạch đồ hoạ. Video Bios còn giúp cho bo mạch đồ hoạ hoạt động ngay khi máy tính bắt đầu khởi động trong quá trình POST - trước khi trình điều khiển của hệ điều hành được nạp. Video bios của bo mạch đồ hoạ ở dạng một ROM, có thể được hàn trực tiếp vào bo mạch đồ hoạ, có thể ở dạng gắn trên đế cắm (đối với các bo mạch đồ hoạ trước đây, chúng có hình dạng cũng giống như các BIOS máy tính). Trong thời gian trước đây, để ép xung bo mạch đồ hoạ thì một số overclocker hoặc hacker thường thay đổi Video Bios bằng cách tải ra firmware rồi sửa đổi và nạp lại chúng (đây là phương thức mà người ta thường sử dụng can thiệp vào phần cứng, ví dụ bẻ khoá các iPhone, nâng cấp các PocketPC...). Do quá trình sửa đổi firmware đòi hỏi phải biết rất sâu về phần cứng nên không phải ai cũng thực hiện được điều này. Đa số các hãng sản xuất đều không cung cấp những sự thay đổi, nâng cấp các firmware cho video bios của bo mạch đồ hoạ bởi vì chúng thường được coi là tối ưu cho mỗi model (tất nhiên rằng trừ trường hợp phát hiện lỗi và cần thiết phải nâng cấp lại). Thay vì đó thì để phục vụ các mục đích overclock bo mạch đồ hoạ sẽ có các tiện ích tinh chỉnh tốc độ CPU, RAM riêng cho từng loại bo mạch hoặc cả một dòng sản phẩm. KẾT NỐI VỚI MÀN HÌNH MÁY TÍNHKết nối đầu ra của bo mạch đồ hoạ đến các màn hình máy tính hoặc các thiết bị hiển thị/sử dụng hình ảnh khác (máy chiếu, TV...) có thể gồm các loại sau đây:
NGUỒN ĐIỆN CUNG CẤP CHO BO MẠCH ĐỒ HOẠCác bo mạch đồ hoạ (rời) trước đây thường lấy điện trực tiếp từ bo mạch chủ thông qua các chân cắm (các khe cắm như PCI, AGP, PCI Express). Với nhu cầu xử lý ngày càng cao, ngày nay các GPU (bộ xử lý đồ hoạ) cần sử dụng một lượng điện năng lớn (có thể trên 150 W), do đó các mạch dẫn trên mạch in của bo mạch chủ và mối tiếp xúc của các khe cắm sẽ không thể đáp ứng nổi các dòng điện lớn như vậy. Đứng trước những yêu cầu như vậy thì bắt buộc hướng thiết kế bo mạch đồ hoạ phải chuyển sang một phương thức cấp nguồn điện khác. Các cung cấp nguồn điện mới sẽ cấp điện trực tiếp từ nguồn máy tính thông qua các đầu cắm thiết kế riêng cho bo mạch đồ hoạ. Đây là một xu thế tất yếu của công nghệ bởi hình thức cung cấp nguồn riêng này đã làm tối ưu rất nhiều trong thiết kế nguồn và thiết kế bo mạch chủ: nguồn máy tính sẽ có thể sử dụng các đường điện +12V độc lập thứ hai, thứ ba hoặc nhiều hơn thế nữa, còn bo mạch chủ sẽ không bị các đường dẫn kích thước lớn để cung cấp cho khe cắm đồ hoạ hiện nay vốn đã có số lượng lớn (có thể có từ 2 đến 4 khe PCI Express theo kiểu X16) Đầu cắm thông dụng cung cấp điện cho bo mạch đồ hoạ hiện nay thường là 6 hoặc 8 chân tuỳ theo mức độ sử dụng điện năng và thiết kế của nhà sản xuất. Hầu như các chân cắm này đều nối các dây dẫn song song - có nghĩa rằng ví dụ có 6 chân thì có đến 3 chân cho dây dẫn GND và 3 dây cho dây dẫn +12V.
THIẾT KẾ TẢN NHIỆTDo phải xử lý một khối lượng công việc lớn khi chơi game hoặc thực hiện các tác vụ liên quan nên bộ xử lý đồ hoạ thường toả một lượng nhiệt lớn, cũng như CPU trong máy tính, các bo mạch đồ hoạ cũng cần tản nhiệt cho GPU. Cách thức tản nhiệt với các GPU thường là:
Do bộ nhớ đồ hoạ cũng phát sinh nhiệt nên trong các cách tản nhiệt trên, tấm tản nhiệt thường bao trùm và tản nhiệt luôn cho bộ nhớ đồ hoạ. Các trường hợp còn lại thì bo mạch đã không tản nhiệt cho bộ nhớ đồ hoạ hoặc thiết kế các phiến tản nhiệt riêng.
ĐA MÀN HÌNH
Sử dụng nhiều màn hình giúp mở rộng Desktop (màn hình chính khi khởi động vào hệ điều hành) và hiển thị nhiều ứng dụng cùng lúc. Với các ứng dụng thông thường hoặc những người sử dụng thông thường thì có vẻ như nhiều desktop đồng thời là điều chưa cần thiết, tuy nhiên ở các phần mềm, game, công việc cần theo dõi nhiều sự biến đổi thông số để nhận định tổng hợp thì nhiều màn hình đồng thời lại có tác dụng rất tốt. Cùng một bo mạch đồ hoạ có thể cho phép xuất ra nhiều màn hình đồng thời mà không nhất thiết chúng có hình ảnh giống hệt nhau. Với các bộ xử lý đồ hoạ mạnh mẽ hiện nay có thể cho phép một bo mạch đồ hoạ xuất ra hai màn hình để mở rộng desktop trong hệ điều hành. Trong trường hợp hệ thống có nhiều bo mạch đồ hoạ cũng có thể mở rộng ra nhiều màn hình đồng thời (giả sử có hai bo mạch đồ hoạ, mỗi chiếc xuất ra hai màn hình thì tổng số sẽ có thể có 4 màn hình cùng hiển thị). Hai (hoặc nhiều hơn) màn hình có thể giúp người sử dụng mở đồng thời nhiều ứng dụng mà vẫn quan sát được các tiến trình đang diễn ra, nhiều cửa sổ để tham chiếu, duyệt web... Một số game cũng cho phép xuất ra nhiều màn hình cùng lúc để hiển thị các góc nhìn khác nhau, ví dụ các game giả lập điều khiển lái máy bay, đua ô tô...mà mỗi một màn hình là một cửa quan sát. ĐỒ HOẠ KÉPKhông dừng lại ở các bộ xử lý đồ hoạ cao cấp, bộ nhớ đồ hoạ dung lượng lớn với tốc độ làm việc cao, các hãng sản xuất đã thiết kế các kiểu sử dụng nhiều bo mạch đồ hoạ trên cùng một máy tính hoặc nhiều GPU trong cùng một bo mạch đồ hoạ. Trong các thời gian trước đây, người ta cũng có thể sử dụng đồng thời nhiều bo mạch đồ hoạ nhưng chỉ dừng lại ở công dụng phát ra nhiều màn hình đồng thời. Công nghệ đồ hoạ kép hiện nay cho phép nhiều bộ xử lý đồ hoạ cùng xử lý một vấn đề đồ hoạ do đó chất lượng và tốc độ xử lý tăng mạnh hơn (có thể hình dung nhiều bộ xử lý đồ hoạ tương tự việc bộ xử lý đa nhân hoặc nhiều bộ xử lý trên cùng một bo mạch chủ). Không giống như mục đa màn hình ở trên, đồ hoạ kép thì theo tôi được biết sẽ chỉ xuất ra một màn hình, có lẽ rằng sau này chúng sẽ cho phép xuất ra nhiều màn hình (hoặc như vậy rồi cũng nên). Mục đích của chế độ này là ghép các bo mạch đồ hoạ lại cùng xử lý chung các vấn đề giống như công nghệ CPU phát triển theo hướng đa nhân vậy. Hai hãng sản xuất chip đồ hoạ ATI và NVIDIA đã có các chuẩn riêng như sau
Công nghệ Crossfire của ATI Crossfire là một công nghệ tăng tốc đồ hoạ mà trong đó một hệ thống máy tính có hai bộ xử lý đồ hoạ cùng có mặt trên một bo mạch đồ hoạ hoặc hai bo mạch đồ hoạ trở lên cùng có mặt trên một bo mạch chủ. Nếu thuộc loại hai bo mạch đồ hoạ (trở lên) cắm vào bo mạch chủ thì yêu cầu bo mạch chủ phải có hai khe cắm kiểu PCI Express X16 (chúng có thể không đồng thời hỗ trợ X16) và bo mạch chủ phải hỗ trợ. Hai bo mạch đồ hoạ ở đây phải liên kết với nhau, có thể qua dây kết nối đầu ra (dây cắm thiết kế riêng gồm 3 đầu, hai đầu cắm vào hai bo mạch đồ hoạ, đầu còn lại cắm vào màn hình máy tính), có thể sử dụng cầu nối giữa hai bo mạch đồ hoạ hoặc có thể sử dụng bằng phần mềm thiết đặt trình điều khiển.
Hình sơ đồ thực tế lắp ghép hai bo mạch đồ hoạ vào cùng một máy tính ở dưới đây:
Chế độ Crossfire chỉ được thiết lập khi mà có các điều kiện sau đây thoả mãn:
Crossfire thì có hai chế độ để thiết đặt chúng hoạt động hoặc loại bỏ chế độ (khi không thiết lập chế độ crossfire thì các bo mạch đồ hoạ này sẽ trở thành nguồn xuất ra nhiều desktop như trường hợp mở rộng nhiều màn hình như phần trên) :
Bạn có nghĩ rằng crossfire sẽ tăng hiệu năng đồ hoạ lên gấp đôi? Không phải, bởi vì không phải cứ có hai bộ xử lý hoặc có hai bo mạch đồ hoạ thì sức mạnh được tăng gấp đôi, chúng chỉ làm tăng lên ... một ít. Chính vì điều này mà sau khi rời bỏ chơi game 3D thì tôi đã phải tháo bỏ một bo mạch đồ hoạ ra mà không sử dụng chế độ crossfire nữa - với các game bình thường hoặc các ứng dụng thông thường thì sử dụng hai bo mạch đồ hoạ chỉ gây tiêu tốn năng lượng không cần thiết (việc sử dụng đồ hoạ kép cho ứng dụng thông thường tựa như việc chúng ta sử dụng một khẩu đại bác chỉ để bắn một con gà nhỏ đang nằm ngủ vậy). Công nghệ SLI của NVIDIA
Gần tương tự như công nghệ Crossfire của ATI, nhưng công nghệ SLI (Scalable Link Interface) của NVIDIA yêu cầu khắt khe hơn về bo mạch chủ: Các bo mạch chủ hỗ trợ công nghệ này phải sử dụng các chipset của chính hãng NVIDIA. Cũng có thể do các điều kiện khắt khe này nên so với Crossfire thì tôi thấy ít nhắc đến SLI ít hơn so với crossfire. (Quả thực là tôi chưa hiểu lắm về SLI nên chưa viết được đoạn này, lúc nào biết sẽ cập nhật thêm) MỘT VÀI HÌNH ẢNH VỀ BO MẠCH ĐỒ HOẠ HIỆN TẠIBo mạch đồ hoạ thì có muôn hình muôn vẻ, ở dưới đây tôi có sưu tầm một số hình ảnh về các bo mạch đồ hoạ để có vài bình luận về phương thức tản nhiệt của chúng.
BẠN CÓ CẦN BO MẠCH ĐỒ HOẠ NHƯ VẬY KHÔNG Bạn có cần không? Nếu như chỉ sử dụng các tính năng bình thường, các game bình thường hoặc game 3D đơn giản không đòi hỏi DX phiên bản 9 trở lên ở một máy tính thì có lẽ rằng đồ hoạ tích hợp sẵn trên chipset là đủ với bạn. Bạn không nên chạy theo các sản phẩm cao cấp mới nhất để rồi giá trị của chúng sẽ dần hạ xuống chỉ sau một thời gian ngắn (tôi thấy thường trong vòng một năm). Sự khôn ngoan trong đầu tư các linh kiện máy tính sẽ giúp bạn giảm chi phí vào các sở thích sở hữu các sản phẩm cao cấp dành cho người sử dụng có nhiều tiền. Nhưng nếu bạn là một người làm việc với đồ hoạ liên tục - như các kiến trúc sư, các người thiết kế đồ hoạ, những người biên tập video thường xuyên thì bạn hãy chọn những bo mạch đồ hoạ có hiệu năng cao để có thể tiết kiệm thời gian làm việc của bạn. Tôi giả sử như việc chờ đợi máy tính render trong một thời gian dài thì chúng cũng sẽ làm bạn lãng phí nhiều thời gian và giảm hiệu suất làm việc. Nhưng mà cho dù có dùng hay không thì biết được chúng như thế thì vẫn tốt hơn :)
Tr Minh Linh (2007-2008) (Entry này được phát triển dựa trên mục từ "Bo mạch đồ hoạ" trên WPtV mà tôi là người đóng góp chính về nội dung - tính theo dung lượng - Và cũng chỉ lấy phần mình viết thôi ^_^) (Entry này có thể chứa đựng nhiều kiến thức lỗi thời, chúng đang được hoàn thiện dần theo thời gian để đảm bảo luôn theo sát sự thay đổi của công nghệ) |
Tham khảo thị trường > Cấu tạo máy vi tính >